Vai trò của các trường ĐH là luôn phải vượt qua rào cản biên giới quốc gia, Peter Scott cho biết, nhưng “quốc tế hóa” vẫn còn tồn tại mặt trái của nó.Sinh viên nước ngoài ở London. Các trường đại học ở Anh có thể tính học phí cao hơn cho sinh viên nước ngoài.
Nếu xét về việc mở rộng tham gia học tập, quốc tế hóa là một “điều tốt”. Nhưng việc mở rộng này cho thấy vi phạm nhiều hơn tuân thủ, bất chấp những nỗ lực của nhiều trường ĐH lớn ở thành thị “sau 1992”, quốc tế hóa vẫn dành cho tất cả mọi người. Giả sử có một cuộc thăm dò về từ ngữ cho các kế hoạch chiến lược của trường ĐH, có lẽ từ “quốc tế hóa” sẽ được xếp đầu bảng. Không thiếu ví dụ để minh họa điều đó. Chẳng hạn như Đại Học London (London College University) tự hào tuyên bố mình là “ĐH Toàn cầu của London”.
Thế nhưng quốc tế hóa nghĩa là gì? Các chuyên gia, tất nhiên, định nghĩa rằng quốc tế hóa là giai đoạn cao nhất trong quan hệ quốc tế giữa các trường ĐH. Quốc tế hóa không chỉ là một từ hay ho để biện minh cho việc gói ghém thêm (học phí cao) cho sinh viên quốc tế, mà thậm chí còn tạo ra một nhãn hiệu để mô tả mối quan hệ đối tác với nước ngoài (mà chắc chắn đi kèm với nó sẽ phát sinh nhu cầu đi lại của các nhà quản lý cấp cao). Khi đó một trường ĐH – các khóa học và chương trình, toàn bộ sinh viên, phạm vi nghiên cứu – sẽ thấm đẫm một tinh thần quốc tế.
Tôi thích sự phân biệt đơn giản hơn – người tốt, kẻ xấu và tên vô lại. Quốc tế hóa là một từ khá vụng để mô tả cả một phạm vi hoạt động rộng lớn mà chúng ta chỉ nên tự hào một vài trong số chúng mà thôi, số còn lại tốt nhất không nên phơi bày ra làm gì. Nhưng đầu tiên, chúng ta cần loại bỏ ngay lối nói hoa mỹ. Đại đa số các trường đại học khi được thành lập là các viện giáo dục quốc gia, ví dụ như các ĐH công lập lớn của Anh và các ĐH công lập ở Mỹ. Các trường ĐH này không được tạo ra một cách tự phát ở đâu đó trên bầu trời quốc tế.
Tất nhiên, vai trò của các trường ĐH là phải vươn ra khỏi biên giới quốc gia. Sinh viên và các nhà nghiên cứu luôn có thể “di động”. Hợp tác nghiên cứu quốc tế luôn phát triển. Các cộng đồng khoa học luôn ở phạm vi toàn cầu. Nhưng tất cả diễn ra mà không có bất kỳ luật lệ quản lý – kiểm soát nào để “quốc tế hóa” trường đại học. Quốc tế hóa là một từ mới, ra đời đầu tiên vào những năm 1980, và gắn liền với chủ nghĩa tự do mới.
Quay lại vấn đề người tốt, kẻ xấu và tên vô lại. Những khía cạnh tích cực của quốc tế hóa có thể thấy như tiềm năng của nó trong việc thay đổi cuộc đời của sinh viên quốc tế; vai trò của nó trong việc duy trì và phát triển khoa học và học bổng thông qua các chương trình trao đổi giáo dục hiệu quả; tiềm năng của nó trong xây dựng tiềm lực kinh tế và xã hội (đặc biệt, nhưng không cá biệt, ở các quốc gia đang phát triển). Những khía cạnh tốt đầu tiên luôn có thể chấp nhận được. Nhưng những khía cạnh tốt thứ hai thường có vẻ do tác động ngẫu nhiên của các mục tiêu khác, trong khi những khía cạnh tốt thứ ba, tôi e rằng, đang có khuynh hướng ngày càng vô nghĩa.
Những khía cạnh xấu, đáng buồn thay, chính là khuynh hướng chính của quốc tế hóa. Đầu tiên đó chính là áp lực phải tuyển sinh sinh viên quốc tế, hầu hết lý do là vì với sinh viên quốc tế các trường có thể thu phí cao hơn. Để kìm chế sự tham lam này, chỉ có cách dùng khả năng “hậu Browne” (chống phân biệt đối xử ở trường học) để nâng cao mức thu phí cho sinh viên Anh Quốc thì may chăng.
Thứ hai đó là cuộc chạy đua giành các lợi thế về địa lý chính trị và thương mại. Trong con mắt của chính phủ thì quốc tế hóa chính là cuộc đua này. Đối với các tổ chức giáo dục thì cuộc đua sẽ mang lại cho họ các lợi thế như vị trí danh giá, bằng chứng về tương lai, cơ hội tuyển sinh sinh viên quốc tế. Trong bất cứ trường hợp nào, những xem xét về đạo đức thường bị xem nhẹ. Gần đây vụ bê bối của Trường Kinh tế London (London School of Economics) với Gaddafi là một trường hợp có thể tha thứ được. Mối quan ngại lớn hơn chính là cách các ĐH Anh đổ bộ vào Trung Quốc, nhân quyền bị đe dọa.
Thứ 3 là sự khẳng định vị trí trên toàn cầu. Xác nhận “toàn cầu” của UCL (University College London) trong khẩu hiệu quảng cáo của mình là sự khẳng định địa vị. Tương tự, việc các ĐH trở thành thành viên của các liên minh toàn cầu gồm các trường ĐH nghiên cứu chuyên sâu hay chỉ là các trường ĐH hàng đầu cũng không ngoài mục đích khẳng định vị trí của mình. Có thể sự phân cấp quốc gia đã trở nên cởi mở hơn, vì ở Anh hiện nay đã loại bỏ sự phân biệt giữa trường đại học và trường đẳng cũng như những tác động không đoán trước được của bảng xếp hạng các ĐH hàng đầu, xây dựng mới hệ thống phân cấp toàn cầu tạo nên một nơi trú ẩn an toàn.
Cuối cùng, tên vô lại: “Cuộc đuổi bắt quốc tế”. Các trường ĐH vật lộn với việc tuyển sinh sinh viên trong nước đã nhắm đến mục tiêu giảm sự phân biệt đối xử với sinh viên quốc tế để đạt được chỉ tiêu tuyển sinh. Các trường khác thì nỗ lực vượt qua những đe dọa thường xuyên ảnh hưởng đến sự bền vững của họ, có lẽ vì trường của họ quá nhỏ hay quá chuyên sâu, bằng cách dấn thân vào cái được mô tả là các cuộc phiêu lưu ở nước ngoài, với đầy rẫy những rủi ro về tài chính và danh tiếng. Cả hai chiến lược trên đều phá hỏng trách nhiệm cốt lõi của các trường ĐH ở Anh là được thành lập và tài trợ với những mục tiêu quốc gia.
Cần nhanh chóng xác lập lại phạm vi của quốc tế hóa, hướng theo cái tốt và tránh xa những cái xấu. Đây không chỉ là vấn đề về mặt đạo đức mà có lẽ còn là mối quan tâm lâu dài của ngành giáo dục. Cuối cùng, việc xác lập lại phạm vi của quốc tế hóa còn tạo nền tảng vững chắc cho việc phản đối làn sóng đang gia tăng đối với việc chống người nhập cư, chống người nước ngoài và những hình thức chống chủ nghĩa dân túy (đại diện quyền lợi và nhu cầu của người dân thường).
• Peter Scott, giáo sư nghiên cứu giáo dục đại học của Viện giáo dục.
(Thanh Tùng biên dịch)











