SSDH – Vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, chúng tôi đang là sinh viên Khoa Văn, trường Đại học sư phạm Hà Nội. Nhưng cứ đến giờ Toán của cô Hoàng Xuân Sính, chúng tôi lại kéo nhau sang lớp cô dạy, ngồi ké phía dưới giảng đường học “dự thính”. Chúng tôi bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của cô đã đành, quan trọng hơn, chúng tôi học được ở cô tác phong sư phạm khi đứng lớp: Tự tin, sang trọng, mẫu mực trong lời giảng rất “chuẩn”, cùng bước chân khoan thai trên bục giảng.
Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Hoàng Xuân Sính
Bỏ qua hủ tục để học cao
Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Hoàng Xuân Sính, nhà toán học nữ đầu tiên của Việt Nam, là người làng Cót, huyện Từ Liêm, Hà Nội (nay là phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy). Nhưng suốt thời niên thiếu, bà sống tại số 102, phố Hàng Bông. Mẹ bà mất khi bà mới 8 tuổi. Thân phụ bà, cụ Hoàng Thúc Tấn, sau đó tục huyền với một nhà tư sản dân tộc là doanh nhân vải sợi. Bà mẹ kế thương con chồng như con ruột. Thời Hà Nội còn bị tạm chiếm, gia đình cụ Hoàng Thúc Tấn tài trợ cho tờ báo Thanh Nghị, tờ báo có quan điểm dân tộc tiến bộ. Nhà hai cụ cũng là nơi đi về, hội họp của những trí thức lớn như Vũ Đình Hòe, Hoàng Xuân Hãn, Luật sư Phan Anh… Tài năng và nhân cách của họ đã lan tỏa sang cô con gái lúc đó mới để tóc đuôi gà.
Năm 1948, bà học hết cấp II. Thời đó trường Trung học của Hà Nội rất ít, chỉ có trường cấp II Nữ sinh Trưng Vương. Trường cấp III Chu Văn An dành cho nam sinh. Còn trường Lyceé Albert Sarraut chỉ con em người Pháp, hoặc con em giới chức cao cấp làm việc cho Pháp mới được học. Nếu muốn học cấp III phải vào trường Chu Văn An học chung đám con trai. Bây giờ nam nữ học chung là bình thường, nhưng cái thời “nam nữ thụ thụ bất thân”, việc học chung là chuyện ghê gớm lắm. Cuối cùng bà cũng vượt lên “hủ tục”, chấp nhận ghi danh học Chu Văn An.
Sau khi có bằng Tú tài 1 ở Hà Nội Ban Sinh ngữ tiếng Anh và tiếng Pháp, bà được cậu ruột là Nguyễn Văn Phúc đang làm kỹ sư sản xuất máy bay tại tỉnh Toulousse đón sang Pháp học Đại học Toán, sau đó là Cao học để lấy bằng Thạc sĩ Toán. Đây là cấp học khó, ngay ở Pháp nhiều người học đến bạc đầu, khi thi vẫn trượt. Bằng Thạc sĩ thời đó chỉ dành cho 2 dòng họ danh giá Marie Curie và Langevin. Với quyết tâm bền bỉ ôn luyện, cần cù học tập, làm theo lời cha dặn “Muốn xây dựng đất nước, giỏi môn Khoa học là thực sự cần thiết”, năm 26 tuổi, bà thi đỗ Thạc sĩ (Aggregation), đó là vinh dự không chỉ dành cho người Việt, mà còn cho cả Đại học Toulousse.
Vinh danh nước Việt
Con đường khoa học đang rộng mở, bà cũng như nhiều tri thức yêu nước Việt Nam ở nước ngoài quyết định trở về. Bà kể: “Tháng 5/1959, tôi đang băn khoăn ở lại Pháp làm việc hay về nước thì được biết tờ báo “Khoa học thường thức” xuất bản ở Hà Nội đã đưa tin tôi đỗ Thạc sĩ ở Paris. Đọc tin nóng hổi từ Tổ quốc gửi sang, lòng tôi bồi hồi xúc động. Tổ quốc hàng ngày vẫn theo dõi những hoạt động và vui mừng với những thành công nhỏ của những đứa con đi xa. Tự nhiên trước mắt tôi, hình ảnh Tổ quốc hiện lên, mỗi lúc một rõ nét. Bao nhiêu kỷ niệm xa xưa lần lượt hiện về trong trí nhớ. Tôi xúc động nhớ hôm nào Bác Hồ đến thăm trường Nữ sinh Trưng Vương, lúc đó tôi chỉ là cô bé 12 tuổi, bé bỏng, ngây thơ. Tôi cùng các bạn ùa ra đón Bác, vây quanh Bác. Và từ đó hình ảnh Bác Hồ mãi mãi bên tôi, động viên, khuyến khích tôi đi lên, vượt qua hết khó khăn này đến khó khăn khác. Trên đất Pháp, tôi được ghi thêm lời Bác dạy đối với anh chị em Việt kiều: Mỗi người cố học giỏi lấy một nghề, sau này trở về phục vụ nhân dân”.
“Trở về”, bà dứt khoát quyết định. 3 tháng sau khi nhận bằng Thạc sĩ Toán học, bà lên đường về nước, hành lý mang theo chỉ là 2 chiếc va ly toàn sách. Về Việt Nam bà chọn nơi công tác là Khoa Toán, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Bà vừa giảng dạy với chức danh Chủ nhiệm bộ môn Đại số, vừa nghiên cứu khoa học. Toán học là một ngành “vừa khó, vừa khổ, lại vừa khô”, song qua lời giảng của cô Hoàng Xuân Sính, kẻ “ngoại đạo” như chúng tôi lại thấy Toán học “đẹp say đắm lòng người”, chẳng khác nào một bài thơ hay của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, hay Pushkin, Lermontov… Đúng như ai đó đã nói “Toán học là bay vút!”.
Nhà toán học nữ đầu tiên của Việt Nam
Trong những năm tháng sơ tán tránh máy bay của không quân Mỹ, bà khắc ghi lời dạy của Bác Hồ “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy thật tốt, học thật tốt”. Dưới ánh đèn dầu, trong gian nhà tranh trống trải ở một làng trung du bên con sông Đáy mưa dầm dề dai dẳng, gió mùa Đông Bắc rét thấu xương, bà khoác tấm chăn chiên mỏng màu xám xỉn, ngồi co ro ghi lại những ý nghĩ mới nảy ra trong đầu để viết luận án: “Lý thuyết Gr-phạm trù”. Bà mang luận án của mình sang Đại học Paris 7, thuộc hệ thống Sorbonne bảo vệ trước một Hội đồng gồm những nhà Toán học lừng danh thế giới từng được Huy chương Fields: Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp, giáo sư Alexande Grothendieck, Giáo sư Henri Cartan… Hội đồng Toán nơi bà bảo vệ còn “thử tài” bà bằng cách ra đề thi tại chỗ. Cả hai luận án đều nhằm giải quyết những vấn đề toán học hiện đại. Bà đã thành công, nhận danh hiệu nữ Tiến sĩ toán học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại “Thủ đô ánh sáng”.
Đau đáu với nền giáo dục Việt Nam, ngày 15/2/1988, bà là một trong những người sáng lập trường Đại học Thăng Long, Đại học Dân lập đầu tiên của nước ta. Hiện bà là Chủ tịch Hội đồng quản trị của trường. Bà là thành viên Hội đồng xét tặng Giải thưởng Khoa học Kovalevskaya ở Việt Nam. Nhiều năm bà là Trưởng đoàn học sinh Việt Nam đi dự thi Olympic Toán quốc tế. Bà cũng tham gia nhiều hoạt động xã hội đa dạng, từng làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa VI (2004 – 2008); Ủy viên Hội đồng chính sách và Công nghệ quốc gia; Ủy viên Hội đồng Giáo dục quốc gia; Ủy viên Hội đồng Tự điển Việt Nam… Nhà nước Pháp trao tặng bà phần thưởng cao quý: Huân chương Cành cọ Hàn lâm về những đóng góp cho việc phát triển và hợp tác khoa học giữa 2 quốc gia Pháp và Việt Nam.
Nhà giáo nhân dân Hoàng Xuân Sính là “Thầy giáo của các thầy giáo”, mãi được nhiều thế hệ học trò của bà kính phục.
Nguồn: Báo An ninh Thủ đô